Lưỡng triều hoàng hậu chương 20
Chương 20
Vân Nga chỉnh Đỗ Thích.
Bộ Lĩnh thỉnh kiều du Trường Châu
**************************
Tôi vừa về đến cổng lớn
Đinh Phủ thì gặp ngay xe ngựa của Lưu Cơ vừa đi xử lý công vụ trở về. Lưu Cơ
xuống xe ngựa, vừa trông thấy tôi thì liền gọi:
-
Dương cô nương.
Tôi cũng hành lễ với Lưu
Cơ. Lưu Cơ lại nói:
-
Cùng vào đi.
-
Được.
Tôi cười nói với Lưu Cơ
rồi cùng ông tiến vào phủ, bọn tôi vừa đi vừa trò chuyện rôm rả. Trước khi chia
tay ở lối rẽ tình cờ tôi nghe được một tiếng chát, sau đó liền nghe một tiếng
khóc thút thít rất nhỏ. Không kịp từ biệt Lưu Cơ, tôi một mạch tìm về nơi phát
ra tiếng động. Xuyên qua một tán cây lớn phủ đầy rêu xanh sà xuống gần chạm
đỉnh đầu, tôi thấy cuối đường, ngay góc viện một em gái tuổi chừng mười lăm mười
sáu đang tranh cãi gì đó với một gã đàn ông chừng hai mươi mấy tuổi. Cả gương
mặt em gái đỏ bừng, đôi mắt bồ câu to tròn giờ ngân ngấn nước, một bên gương
mặt trái xoan xinh xắn giờ đây in hằn một dấu bạt tai đỏ chót. Gã đàn ông đang
giơ tay toan tát em ấy thêm cái nữa. Chứng kiến cảnh tượng chướng mắt này, tôi
không khỏi tức giận, lập tức la lên:
-
Ngừng tay.
Gã đàn ông sửng sốt nhìn
tôi. Bình thường tôi hiếm khi ác cảm với người khác, vậy mà vừa nhìn thấy gương
mặt gã này tôi lập tức nảy sinh một cảm giác vô cùng chán ghét. Gã có một gương
mặt thon dài linh lợi, nhưng trên gương mặt cũng có thể tính là thanh tú ấy,
lại có một đôi mắt hồ ly hơi xếch lên khiến gã trông càng có vẻ giảo hoạt, gian
trá. Mắt hồ ly lên tiếng quát:
-
Mày là kẻ nào? Dám can thiệp vào chuyện của ông?
-
To gan.
Người vừa lên tiếng là
Lưu Cơ, lúc này cũng vừa đến bên cạnh tôi. Mắt hồ ly và em gái nhỏ đồng loạt xá
chào Lưu Cơ.
-
Lưu Quân sư.
-
Lưu Quân sư.
Lưu Cơ lại chỉ vào tôi
mà nói:
-
Dương cô nương đây là môn khách của Chúa công, ngươi không được vô
lễ.
Lúc này mắt hồ ly mới
cúi người hành lễ với tôi, lại nói.
-
Dương cô nương thứ tội.
Tôi bèn tiến tới, vỗ vai
em gái nhỏ hỏi:
-
Em gái, mau kể cho ta nghe đã xảy ra chuyện gì?
Em gái nhỏ mạnh mẽ lấy
tay gạt hết nước mắt, cất tiếng:
-
Dương cô nương, cuối tháng này Chúa công có hỷ sự. Em nghe thư
đồng của Chúa công nói Chúa công ban thưởng toàn phủ. Người hầu hạ thân cận bên
cạnh Chúa Công, các vị phu nhân và các vị mưu sĩ trong phủ được thưởng năm mươi
tiền, người hầu ở nhà trước thì được thưởng ba mươi tiền, còn những người chạy
việc ở nhà sau như bọn em thì được thưởng hai mươi tiền. Nhưng hôm nay, Đỗ Tổng
quản đi phát tiền thưởng cho bọn em, bọn em lại chỉ nhận được có năm tiền. Các chị
em khác không ai dám nói gì, nhưng em không chịu, em đã làm việc rất chăm chỉ,
tiền này em xứng đáng được thưởng. Em đi tìm Đỗ Tổng quản để nói cho ra lẽ
nhưng Đỗ Tổng quản lại đánh em.
Cái người được gọi là Đỗ
Tổng quản kia mặt tím lại, gã rít qua kẽ răng:
-
Con hầu chết tiệt, mày ăn nói lung tung gì đó hả? Bọn mày chỉ được
thưởng có năm tiền thôi nghe rõ chưa hả? Dám nói bậy hả? Tao đánh chết mày.
Đoạn gã lại giơ tay lên
toan tát em ấy, tôi nhanh tay chộp lấy cánh tay gã, đẩy em gái nhỏ ra phía sau
lưng tôi, lại nói với tên Đỗ Tổng quản kia:
-
Đỗ Tổng quản phải không? Nếu ngươi nói Đinh Sứ Quân chỉ ban thưởng
cho những người hầu ở nhà sau năm tiền, vậy ngươi có dám cùng ta đến gặp Đinh
Sứ Quân nói cho rõ ràng không?
Khóe mắt hồ ly của gã khẽ
giựt giựt, gã đáp:
-
Chút việc nhỏ này sao dám làm phiền đến Chúa công?
Tôi lại nói:
-
Nếu vậy, chúng ta đến gặp thư đồng của Sứ Quân cũng được. Thế nào?
Mặt của Đỗ Tổng quản từ
tím chuyển sang xanh lét. Gã nhìn Lưu Cơ rồi lại quay sang nhìn tôi. Tôi trừng
mắt nhìn lại gã, cuối cùng gã lí nhí nói:
-
Là tôi nhớ nhầm, tiền thưởng của nó đúng là hai mươi tiền. Tôi đây
nhiều việc nên lẩm cẩm. Xin Dương cô nương và Lưu Quân sư giơ cao đánh khẽ.
Tôi bình sinh ghét nhất
là loại người ỷ mạnh hiếp yếu, tham quan hối lộ, đàn ông đánh phụ nữ. Mà cái
tên đang đứng trước mặt tôi thì điểm xấu nào cũng hội đủ cả. Thật đáng ghét!
Tôi nở nụ cười lạnh nhạt
nói:
-
Nếu đã là nhớ nhầm thì mau trả số tiền còn lại cho em gái đây.
Đỗ Tổng quản đành bất đắc
dĩ rút túi tiền trong người ra đếm từng đồng đưa lại cho em gái nhỏ. Vẻ mặt em rạng
rỡ hẳn lên khi nhận đủ thêm mười lăm tiền từ gã. Em ấy quay đầu sang cảm ơn tôi
rối rít.
Đỗ Tổng quản cúi đầu
chắp tay hành lễ với tôi và Lưu Cơ, lại hậm hực nói:
-
Lưu Quân sư, Dương cô nương, trong phủ còn nhiều việc, nếu hai vị
không còn việc gì nữa, tôi xin cáo lui.
Nói đoạn, gã xoay lưng
toan rời đi. Tôi không nhanh không chậm lại nói:
-
Đỗ Tổng quản dừng bước.
Gã ngạc nhiên quay đầu
lại nhìn tôi. Tôi cười cười quay sang hỏi em gái nhỏ:
-
Đinh Phủ có tất cả bao nhiêu người hầu ở nhà sau như em?
Em ấy giơ hai bàn tay ra
tính tính một hồi cuối cùng nói:
-
Có tất cả sáu mươi người.
Tôi nheo mắt nhìn sang
Đỗ Tổng quản, lại giơ ngón tay bấm bấm ra vẻ tính toán nói:
-
Sáu mươi người trừ em gái đây ra là còn năm mươi chín người. Ngươi
thiếu mỗi người mười lăm tiền, năm mươi chín người vị chi là tám trăm tám mươi
lăm tiền. Tương đương tám mươi tám quan[1] lẻ năm tiền. Mau giao ra
đây để em ấy chia lại cho các người hầu khác trong phủ.
Đỗ Tổng quản lại rít
lên:
-
Cô!
Sắc mặt Đỗ Tổng quản lúc
này lại từ xanh chuyển sang trắng bệch. Mồ hôi ròng ròng hai bên thái dương.
Tay gã lại run run móc túi tiền từ trong người ra. Khóe mắt cũng giật kịch
liệt. Tôi vô cùng vô cùng kiên nhẫn đợi gã lấy cho đủ số tiền đưa cho em gái
nhỏ. Em gái nhỏ nhận được số tiền này sắc mặt liền tươi như hoa nở.
Đỗ Tổng quản đưa tiền
xong mím môi nén giận nói:
-
Dương cô nương, bây giờ tôi đi được chưa?
Không đợi tôi trả lời, gã
phất tay áo bỏ đi. Tôi lại cất giọng không cao không thấp:
-
Khoan đã.
Đỗ Tổng quản phẫn nộ
quay sang nhìn tôi, nói:
-
Dương cô nương lại muốn sao nữa?
Tôi nhìn thẳng vào mắt
gã, chậm rãi nói:
-
Vừa rồi ngươi đánh em gái này một bạt tai.
Gã khẩn trương nói:
-
Đánh cũng đã đánh rồi, giờ cô muốn sao?
Tôi lạnh nhạt đáp:
-
Ngươi tự tát mình lại gấp đôi, hoặc không phục thì đến gặp Sứ Quân
cáo trạng đích danh ta.
Đôi mắt hồ ly trừng
trừng nhìn tôi đến mức muốn nứt ra. Tôi khẽ chép miệng:
-
Sao hả? Ta không còn nhiều thời gian dây dưa với ngươi.
Gã lại quay sang nhìn
Lưu Cơ cầu cứu, Lưu Cơ không nói gì. Cuối cùng, gã đành giơ tay tát lên mặt một
cái, tát không nặng không nhẹ, nghe được một tiếng chát nho nhỏ. Tôi nói:
-
Cái này nhẹ. Không tính.
Gã đành nghiến răng,
dùng hết sức tát một bạt tai thật mạnh, cả khuôn mặt trắng bệch hằn rõ năm vết
dấu tay, tôi mới gật đầu hài lòng:
-
Cái này tính.
Đợi gã tát xong cái còn
lại. Tôi dắt tay em gái nhỏ quay sang nói với Lưu Cơ lúc này đang đứng một bên
quan sát cả màn kịch:
-
Lưu Quân sư, tôi rất thích em gái này. Ngài giúp tôi nói với Đinh
Sứ Quân một tiếng, cho tôi giữ em ấy ở lại Thái Huyên Các làm việc được không?
Lưu Quân sư cười khổ, gật
đầu nói:
-
Chỉ cần cô nương thích, Chúa công nhất định sẽ đồng ý.
Đoạn cả ba người bọn tôi
đều rời đi bỏ lại sau lưng mắt hồ ly bừng bừng lửa giận.
Đi được một đoạn, Lưu Cơ
không nhịn được mà nói với tôi:
-
Dương cô nương, ông bà ta thường nói thà đắc tội với quân tử cũng
đừng nên đắc tội với kẻ tiểu nhân. Sao hôm nay cô nhất định phải làm khó hắn?
Tôi quay sang cười nói với
Lưu Cơ:
-
Lưu Quân sư, bình sinh tôi ghét nhất là nam nhân đánh nữ nhân.
Trừng phạt như vậy là còn nhẹ. Huống hồ…
-
Huống hồ gì?
Lưu Cơ hỏi lại. Tôi cười
toe toét đáp:
-
Cả Đinh Sứ Quân tôi cũng đã đắc tội nhiều lần rồi, còn sợ một kẻ
tiểu nhân nữa sao?
Lưu Cơ lắc đầu nhìn tôi
rồi cũng bật cười. Bọn tôi chia tay ở ngã rẽ gần Thái Huyên Các. Trên đường vào
tiểu viện Thái Huyên Các của tôi, tôi hỏi em gái nhỏ:
-
Em gái, em tên gì? Năm nay bao nhiêu tuổi?
Em gái nhỏ ngoan ngoãn
đáp:
-
Bẩm Dương cô nương, em tên Nguyễn Thị Thanh, năm nay mười lăm tuổi.
Tôi nhìn em gái nhỏ
trước mặt, em gái này tuy tuổi còn nhỏ nhưng cũng rất dũng cảm, quật cường, dám
chống đối một tổng quản trong phủ để đòi lẽ công bằng. Tính cách này thật giống
cô em gái ở thời hiện đại của tôi, con bé cũng chỉ lớn hơn em gái này một chút,
tên nó cũng có chữ Thanh. Lòng tôi bất giác càng thêm quý mến em gái nhỏ này. Tôi
liền nói:
-
Tên em có một chữ Thanh, cũng giống tên em gái ruột của ta, sau
này ta gọi em là Thanh Thanh nhé. Em cũng cứ gọi ta là chị được rồi.
Thanh Thanh rụt rè đáp:
-
Em không dám, gọi Dương cô nương vẫn tốt hơn ạ.
Tôi cũng không muốn miễn
cưỡng em ấy, lại nói:
-
Tùy em vậy, em muốn gọi ta sao cũng được.
Sau đó tôi dắt em ấy vào
viện giới thiệu với hai cô hầu gái trước đó đã hầu hạ tôi ở Thái Huyên Các, lại
phân phó một số công việc cho em ấy làm. Trước khi em ấy rời đi, tôi thuận
miệng hỏi em một câu:
-
Thanh Thanh, cái tên Đỗ tổng quản ban nãy tên gì vậy?
Thanh Thanh ngây thơ trả
lời một cái tên khiến tôi thiếu điều muốn phun cả ngụm trà đang nuốt dở trong
miệng ra.
-
Đỗ Thích![2]
************************************************
-
Thanh Thanh! Ta đói sắp chết rồi, em mau đem đồ ăn sáng ra cho ta
đi!
Tôi vừa mè nheo vừa lay
lắt từ phòng ngủ bước ra tiền điện. Tối qua luyện thư pháp đến tận khuya mới đi
ngủ, sáng nay cả người đều mệt mỏi. Vừa đặt chân vào tiền điện Thái Huyên Các, tôi
giật mình khi thấy Đinh Bộ Lĩnh đang ngồi ở bàn ăn trong góc điện. Hai cô hầu
gái đang thoăn thoắt dọn các món ăn sáng lên bàn, Thanh Thanh cũng đứng hầu hạ
bên cạnh. Tôi còn đang há hốc mồm thì Đinh Bộ Lĩnh đã lên tiếng:
-
Dương cô nương đến rồi. Mau lại đây cùng ăn sáng.
Ông trời ơi, chuyện gì
đang xảy ra vậy? Tôi còn đang ngủ chưa tỉnh sao? Đinh Bộ Lĩnh đến Thái Huyên
Các thăm tôi, còn muốn cùng tôi ăn sáng! Nghĩ vậy nhưng cuối cùng tôi vẫn cười
cười, tiến đến chắp tay hành lễ với anh ta.
-
Tham kiến Đinh Sứ Quân.
Đoạn, tôi ngồi vào bàn,
lại nói:
-
Hôm nay Đinh Sứ Quân đúng là rồng đến nhà tôm. Chẳng hay Sứ Quân
đến tìm tôi có việc gì chỉ giáo?
Đinh Bộ Lĩnh nhẹ giọng đáp:
-
Chỉ muốn mời cô dùng bữa thôi!
Sau đó anh ta lại vô
cùng tự nhiên, nhấc chén đũa lên bắt đầu dùng bữa. Tôi cũng không biết nói gì
nên cũng bắt đầu ăn sáng. Không khí quả thật có chút kỳ quái!
Đinh Bộ Lĩnh lại cất
lời:
-
Dương cô nương đến Trường Châu được bao lâu rồi?
Tôi thuận miệng đáp
ngay:
-
Gần hai tháng rồi.
Đinh Bộ Lĩnh mỉm cười:
-
Nhớ kỹ đến vậy à?
Tôi vừa nhai thức ăn vừa
gật đầu. Nói thừa, bổn cô nương đây đếm từng ngày đấy!
Đinh Bộ Lĩnh lại nói:
-
Lúc cô nương vừa đến Hoa Lư, ta đã hứa sẽ dẫn cô nương đi du sơn
ngoạn thủy. Chọn ngày chi bằng gặp ngày, hôm nay vừa khéo ta không có công vụ, ta
đưa cô đi xem một vòng Trường Châu, cô thấy thế nào?
Tôi suýt mắc nghẹn. Lắc
lắc đầu, rồi lại gật gật đầu.
Khóe môi Đinh Bộ Lĩnh
cong lên, nở một nụ cười thật nhẹ, anh ta nói:
-
Quyết định vậy đi!
Đoạn anh ta quay sang
phân phó cho một cô hầu gái chuẩn bị xe ngựa đến sông Ngô Đồng.
Từ căn cứ Động Hoa Lư
đến sông Ngô Đồng cách khoảng hai mươi dặm, ngồi xe ngựa chừng hơn nửa canh giờ
là tới. Đến nơi, tôi cùng Đinh Bộ Lĩnh xuống thuyền độc mộc của một cô thôn nữ
xinh đẹp. Cô ấy chèo thuyền đưa bọn tôi đi dọc theo sông Ngô Đồng ngắm cảnh.
Lúc này Trường Châu đang
vào mùa thu hoạch lúa chính vụ Chiêm tháng sáu. Dòng sông Ngô Đồng uốn lượn mềm
mại xuyên qua những ngọn núi đá vôi xanh rì cây cối. Lòng sông nhỏ hẹp, hai bên
sông là những biển lúa chín vàng ươm dập dờn trong gió đợi gặt. Lúa ở đây nằm
giữa sông và núi tạo thành một khung cảnh thật nên thơ và trữ tình. Trời trong
xanh, mây trắng lững lờ trôi, nước sông xanh thẳm, đồng lúa vàng ươm hòa cùng
sắc xanh rì của đồi núi hai bên sông tạo nên một bức tranh thiên nhiên rực rỡ
và sống động. Chiếc thuyền độc mộc chầm chậm trôi trên mặt sông, tôi gần như
nín thở trước khung cảnh sơn thủy hữu tình ấy. Không gian chung quanh vừa thanh
tĩnh vừa bình yên đến lạ, chốc chốc chỉ nghe những tiếng mái chèo khỏa nước nhè
nhẹ vang lên, lòng tôi lâng lâng một cảm giác giác phiêu bồng và lãng đãng, cứ
như con thuyền ấy đang đưa tôi vào cõi mộng mơ, rời xa thế tục. Không biết đã
qua bao lâu, thuyền độc mộc lại đưa bọn tôi xuyên qua một hang đá mát lạnh và
tối om, vòm đá gần như sát trên đỉnh đầu, thạch nhũ muôn hình vạn trạng, thi
thoảng một vài giọt nước từ trên vách đá nhỏ xuống vạt áo tôi khiến tôi vô cùng
thích thú. Ánh sáng đến và đi ở mỗi hai đầu vòm hang cho tôi biết tôi đã đi qua
tất cả ba hang đá như thế để rồi lại trở về với dòng sông hiền hòa, ngát nồng
hương lúa chín thơm hai bên bờ.
Suốt cả chuyến đi trên
sông, Đinh Bộ Lĩnh và tôi đều không ai cất tiếng, dường như cả anh và tôi đều
thả hồn vào những phút giây thư thái hiếm có để hòa mình cùng thiên nhiên tươi
đẹp. Lên đến bờ, Đinh Bộ Lĩnh mới nói với tôi:
-
Thế nào Dương cô nương, ta nói không sai đúng không? Trường Châu
cũng không tệ chứ hả?
-
Trường Châu thật đẹp!
Tôi không khỏi ngưỡng mộ
mà thốt ra. Đinh Bộ Lĩnh mỉm cười hài lòng, anh ta lại nói:
-
Ta đưa cô đến nơi này!
Tôi không nén được tò mò
hỏi:
-
Chúng ta lại đi đâu?
Đinh Bộ Lĩnh đáp:
-
Thôn Kim Lự[3].
Cái tên này thật sự rất
quen tai. Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
-
Thôn Kim Lự?
Đinh Bộ Lĩnh khóe mắt
mang ý cười nói:
-
Không sai, chính là nơi ta được sinh ra.
Thôn Kim Lự ở làng Đại
Hữu, cách căn cứ Động Hoa Lư không xa. Vén rèm xe ngựa, tôi thấy đường dẫn vào
thôn phải đi xuyên qua một vùng đất rộng mênh mông, um tùm cỏ xanh lau sậy và
những ngọn bông lau trắng muốt căng tràn nhựa sống. Hai bên đường từng đàn trâu
nhởn nhơ gặm cỏ, những đứa trẻ chăn trâu để đầu ba vá đứa ngồi trên lưng trâu,
đứa nằm dài trên bãi cỏ, đứa rượt đuổi nhau giữa đồng cỏ. Tôi lắng nghe tiếng
bọn chúng ngêu ngao hát, lòng bất giác cũng mỉm cười:
À ơi à ơi à ơi… Ai bảo
chăn trâu là khổ.
Ngồi trên mình trâu,
phất ngọn cờ lau.
Miệng hát nghêu ngao.
Mây trôi trên cao.
Nằm đồi non gió mát.
Theo tiếng lúa reo tôi hát.
Mong lớn lên mau. Vươn
sức cần lao.[4]
Đinh Bộ Lĩnh nói:
-
Ta và Trịnh Tú, Lưu Cơ, Nguyễn Bặc, Đinh Điền thuở nhỏ cũng đã
từng chăn trâu, đùa nghịch như vậy.
Tôi hỏi anh ta:
-
Sứ Quân, đường vào thôn còn xa không? Chúng ta xuống đi bộ ngắm
cảnh được không?
Đinh Bộ Lĩnh gật đầu:
-
Không xa lắm, chúng ta đi bộ vào thôn cũng được.
Vậy là Đinh Bộ Lĩnh và tôi
cùng xuống xe ngựa. Vừa đi được vài bước, lũ trẻ chăn trâu trông thấy bọn tôi
liền chạy ào ào đến vây lấy. Chúng nó nháo nhào reo lên:
-
A, Đinh thúc thúc…
-
Đinh thúc thúc…
-
Đinh thúc thúc đã về rồi…
Hóa ra bọn nhỏ đều biết Đinh
Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh nở nụ cười dịu dàng với bọn chúng, anh ta bế một đứa nhỏ
nhất lên tay, hỏi:
-
A Sửu dạo này có ngoan không? Có còn bỏ trâu trốn đi chơi nữa
không?
Đứa nhỏ tên A Sửu ngọng
nghịu đáp:
-
Không có, không có! A Sửu dạo này rất ngoan.
Đinh Bộ Lĩnh lại hỏi
những đứa trẻ khác những chữ lần trước anh ta dạy đã thuộc chưa, những phép
tính anh ta dạy còn nhớ hay không. Lũ trẻ lao xao thay nhau trả lời anh:
-
Đinh Thúc thúc, con nhớ hết rồi.
-
Đinh Thúc thúc, sau này con lớn lên thúc cho con đi theo thúc đánh
giặc bảo vệ nước nhà nhé nhé.
-
Đinh Thúc thúc, con cũng muốn đi.
-
Đinh Thúc thúc, con đi nữa, con đi đánh giặc nữa.
Nhìn Đinh Bộ Lĩnh bị một
đám nhóc vây quanh, đứa níu tay áo, đứa kéo vạt áo, bộ dáng khá chật vật khiến tôi
cũng phì cười. Hôm nay, lần đầu tiên, tôi đã thấy một Đinh Bộ Lĩnh thật khác.
Lũ trẻ thấy tôi cười lại quay sang hỏi Đinh Bộ Lĩnh.
-
Đinh Thúc thúc, tỷ tỷ xinh đẹp này là ai vậy?
-
Đinh Thúc thúc, có phải là thê tử của thúc không?
Tôi và Đinh Bộ Lĩnh đồng
loạt lên tiếng:
-
Nói bậy!
-
Nói bậy!
Tôi cúi xuống, cười cười
nói với bọn nhỏ:
-
Tỷ là bằng hữu của Đinh thúc thúc các đệ.
Một đứa mặt mũi đen nhẻm
lại quay sang hỏi Đinh Bộ Lĩnh:
-
Sao Đinh thúc thúc không cưới tỷ ấy đi?
Đinh Bộ Lĩnh nâng tay đỡ
trán. Tôi nhéo nhéo tai đứa nhỏ, lại nói:
-
Tỷ lần đầu đến đây, đệ đi hái tặng cho tỷ mấy ngọn cỏ lau được
không? Tỷ rất thích!
Đứa nhỏ nghe vậy, lập
tức hăng hái chạy đi hái cả bó bông cỏ lau dúi vào tay tôi. Tôi thật vui, lấy
bánh ngọt đem theo trong túi ra chia hết cho bọn nhỏ, rồi ôm cả bó cỏ lau cùng
Đinh Bộ Lĩnh dạo bước vào thôn.
Bọn tôi đi thăm những
thảm lúa vàng óng đang vào mùa gặt. Tất cả thanh niên trai tráng trong thôn đều
để người trần lội dưới ruộng, dùng lưỡi hái thuần thục lưu loát gặt lúa, mồ hôi
túa ra trên những thân hình chắc khỏe, từng giọt từng giọt sáng lấp lánh dưới
ánh mặt trời. Những cô thôn nữ, người già, trẻ nhỏ thì phụ giúp gom lúa, gánh
lúa, tuốt lúa. Tiếng cười nói nhộn nhịp vang lên không dứt khắp cả cảnh đồng
bất tận.
Tôi thấy Đinh Bộ Lĩnh
xuống ngồi bên bờ ruộng, tay nâng niu từng bông lúa, chăm chú quan sát, kiểm
tra độ lớn của hạt, số hạt trên từng bông lúa, độ chắc của lúa. Một vài vị bô
lão trong thôn nhận ra Đinh Bộ Lĩnh liền lập tức đến xá chào Đinh Bộ Lĩnh, một
vị cất tiếng:
-
Năm nay nhờ hồng phúc của Sứ Quân mà lại được mùa.
Đinh Bộ Lĩnh cũng gật
đầu:
-
Chư vị vất vả rồi!
Giữa trưa, gặt lúa xong,
ai ai cũng thấm mệt, mồ hôi đầy người, mọi người lại cùng đến dưới bóng tre bên
bờ đê cùng ăn trưa. Tôi và Đinh Bộ Lĩnh cũng được thôn dân mời ăn trưa cùng. Tôi
không khỏi ngạc nhiên khi thấy anh ta thật sự cũng ngồi xếp bằng, quây quần
cùng thôn dân ăn trưa. Nông dân nấu cơm bằng nồi đất to, hai ba nồi cơm nóng
sốt hôi hổi, một nồi dê núi kho đậu hũ thơm lừng, còn có thêm một nồi rau củ kho
quẹt tươi ngon. Không phải sơn hào hải vị gì nhưng Đinh Bộ Lĩnh ăn rất ngon
lành, anh ta cư xử với thôn dân rất quen thuộc tự nhiên, cứ như không hề có
khoảng cách giữa Sứ Quân và thường dân. Đi cả ngày nên tôi vừa mệt vừa đói,
cũng ăn rất ngon miệng. Bọn tôi vừa ăn vừa cùng thôn dân nói đủ chuyện trên
trời dưới đất.
Cơn gió chiều nhè nhẹ
thổi qua mang theo hương lúa thơm nồng, Đinh Bộ Lĩnh lại cùng tôi thong thả đi dạo
trên bờ đê ven ruộng. Khung cảnh làng quê yên ả thả con người đến chốn yên tĩnh
thật sâu trong tâm hồn. Tôi thoáng thấy đầu mày anh ta khẽ nhíu lại, bèn cất
tiếng hỏi:
-
Đinh Sứ Quân, năm nay rõ ràng là được mùa, nhưng sao tôi thấy ngài
dường như vẫn còn phiền não?
Đinh Bộ Lĩnh trầm ngâm
đáp:
-
Bách tích làm lụng vất vả quanh năm nhưng đến khi thu hoạch tính
ra vẫn không dư dả gì nhiều!
Tôi tròn mắt hỏi:
-
Vì sao?
Đinh Bộ Lĩnh khẽ thở
dài:
-
Trong suốt gần một nghìn năm bị bọn giặc phương Bắc đô hộ, nước ta
phải chịu chế độ cai trị hà khắc, bóc lột tàn bạo của bọn chúng, thuế khóa phải
nộp đến sáu, bảy phần sản lượng thu hoạch, dân chúng đói khổ cơ cực vô cùng.
Trong sáu mươi năm gần đây, từ sau khi nhà Đường suy vong, Khúc Thừa Dụ giành
lấy quyền tự chủ cho người Việt, trở thành Tiết độ sứ đầu tiên của Tĩnh Hải
quân. Hậu duệ của ngài là Khúc Hạo sau đó đã không ngừng cải cách chế độ điền
tô, thuế má, lực dịch nặng nề của thời Đường, nhất là chính sách bình quân thuế
ruộng của ngài đã cải thiện được đời sống của bách tính trăm họ. Sau khi Tiền
Ngô Vương lên ngôi, ngài vẫn luôn giữ nguyên những cải cách đó. Mặc dù bách
tính không phải nộp sưu cao thuế nặng nữa, nhưng năng suất lúa vẫn còn rất
thấp. Tính ra từ suốt thời kỳ Bắc thuộc đến nay, năng suất cũng chỉ được khoảng
ba mươi sáu hộc lúa[5]
một mẫu ruộng[6],
không hề tăng thêm.
Tôi không nén được kinh
ngạc mà hỏi:
-
Ít đến thế sao?
Một hộc lúa tương đương
với mười kg, một mẫu ruộng chỉ được có ba mươi sáu hộc lúa tương đương với ba
trăm sáu mươi kg. Ở thời hiện đại của tôi, một mẫu ruộng có thể đạt được năng
suất gần hai nghìn kg lúa[7], tương đương hai trăm hộc
lúa. Tức là năng suất thu hoạch lúa hiện nay ở Tĩnh Hải Quân chỉ gần bằng một
phần năm so với thời kỳ hiện đại.
Đinh Bộ Lĩnh khẽ gật
đầu, anh ta nói:
-
Kỹ thuật canh tác lúa nước của chúng ta qúa lạc hậu. Ở Trường
Châu, Giao Châu, Bố Hải Khẩu còn tương đối, chứ vùng núi non phía bắc như Phong
Châu và Lục Châu vẫn còn duy trì phương pháp du canh nên năng suất thậm chí còn
thấp hơn rất nhiều.
Tuy tôi không rành về
nông nghiệp, nhưng đại khái cũng có thể hiểu được nguyên nhân là do thời kỳ này
không có giống lúa tốt, không có phân bón hóa học, điều kiện thủy lợi và kỹ
thuật canh tác chăm sóc lại càng không thể so với thời kỳ hiện đại.
Đinh Bộ Lĩnh lại kể:
-
Mấy năm gần đây, ta đã cho tuyển chọn kỹ các giống lúa tốt nên
năng suất cũng có tăng chút đỉnh. Ta dự định năm nay sẽ dành toàn lực phát
triển công tác dẫn thủy nhập điền. Sang năm, chiến loạn giảm bớt, có thể cho
dân chúng đi khai khẩn đất trồng bỏ hoang do loạn lạc, vừa có thể tăng sản
lượng vừa khéo có thể giải quyết vấn đề cư dân chạy loạn. Sau đó có thể dùng
ngân sách thu được từ sản lượng tăng thêm này mà sửa chữa, đắp thêm đê đập
chống lũ. Ta còn muốn thực thi chính sách khẩn hoang lập ấp ở Quảng Nguyên và
Lục Châu, như vậy có thể giúp bách tính…
Đinh Bộ Lĩnh thao thao
bất tuyệt kể về những kế hoạch phát triển ngành nông toàn Tĩnh Hải Quân của anh
ta. Tôi chăm chú lắng nghe anh ta nói. Trước nay tôi chưa bao giờ nhìn thấy
khía cạnh này trong con người Đinh Bộ Lĩnh. Từ sau khi gặp Đinh Bộ Lĩnh, tôi
vẫn luôn cảm thấy con người anh ta quá mức cơ trí, mưu lược cao thâm, tâm tư
lại cẩn mật, nên vô hình chung tôi luôn có cảm giác đề phòng anh ta. Nhưng hôm
nay, nghe được những lời bộc bạch đầy hùng tâm tráng chí, cùng tấm lòng ôm muôn
dân thiên hạ của anh ta, bất chợt tôi cảm thấy có phải tôi đã quá định kiến với
anh ta rồi không? Đế vị này… anh ta cũng xứng đáng!
Ráng chiều đã buông
xuống, những tia nắng vàng cuối ngày chiếu rọi lên làn mi dài đẹp cùng đôi mắt
phượng sáng ngời đầy tự tin của Đinh Bộ Lĩnh. Lúc này tôi mới để tâm thấy anh
ta một thân bạch y đoan chính, viền áo kết tơ vàng càng lấp lánh dưới ánh nắng
mờ ảo, một cây trâm bạch ngọc thanh tao gài trên mái tóc đen nhánh, bộ dáng
tuấn mỹ phi phàm, thần thái cao quý nhàn nhã. Tôi thoáng kinh diễm, vội quay
đi, không dám nhìn thẳng vào người trước mặt, sợ rằng cả đời này sẽ bị trầm
luân bởi đôi mắt phượng mày ngài ấy.
-Hết chương 20-
[1]Theo tỷ số xưa thì 1 quan là 10 tiền (mạch); 1 tiền là 60 đồng
(văn)
[2]Đỗ Thích: theo một số tài liệu lịch sử chính
thống và dã sử, Đỗ Thích là người đã ám sát vua Đinh Tiên Hoàng năm 979
[3]Thôn Kim Lự ở làng Đại Hữu: nay là thôn Văn Bồng, xã Gia Phương,
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình
[4]Lời bài hát trong truyện mượn cảm hứng từ bài
hát Em Bé Quê của nhạc sĩ Phạm Duy
[5]1 hộc lúa = 10 đấu, 1 đấu gần bằng 1kg
[6]1 mẫu ruộng= 3,600 m2 (1 hecta= 10,000 m2)
[7]Năng suất lúa bình quân ở Đồng Bằng Sông Hồng hiện tại là 55 tạ
một hecta
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét