Lưỡng triều hoàng hậu chương 19
Chương 19
Mượn đường diệt Quắc,
Bộ Lĩnh dẹp Khuê, Đường. Rừng trúc điền viên, Vân Nga diện cao nhân
**************************************
“Mệnh trời đã định nẻo
xưa,
Ngọc khuê dành để đợi
chờ đế vương.”
Gần đây khắp đầu đường
xó chợ trong dân gian bắt đầu lưu truyền rộng rãi hai câu sấm truyền này. Cùng
với đó là câu chuyện về việc Đinh Bộ Lĩnh thuở thiếu thời đánh cá đoạt được
ngọc quý tinh quang lan tỏa, là thần vật trời ban cho bậc chân mệnh thiên tử.
Người người truyền miệng Đinh Bộ Lĩnh là người trời, thuận thiên mệnh, xưng đế
nghiệp, gánh sơn hà.
Việc này khiến tôi vô
cùng phiền muộn, đương nhiên tôi không tin cái gọi là sấm truyền. Từ cổ chí kim
những lời sấm truyền, điềm lạ dự báo về việc xưng vương, xưng đế của các vị vua
chúa trong lịch sử, điển hình như giai thoại Hán Cao Tổ Lưu Ban “chém rắn
trắng khởi nghĩa” hay lời sấm truyền thứ mười sáu của Thôi Bối Đồ rằng Tống
Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn "Khoác hoàng bào lên, thiên hạ thái
bình" đều là do bàn tay con người tạo nên cả. Việc Đinh Bộ Lĩnh “Đoạt
ngọc khuê, lĩnh mệnh trời” chín phần cũng là do mưu sĩ bên cạnh Đinh
Bộ Lĩnh bày ra. Có điều tôi ở trong Đinh Quân lâu nay, những mưu sĩ, quân sư
bên cạnh Đinh Bộ Lĩnh đều đã gặp qua, trong đó quân sư đứng đầu phải kể đến Lưu
Cơ. Nhưng Lưu Cơ lại là người thật thà, không giống người có thể nghĩ ra diệu
kế cao thâm giúp Đinh Bộ Lĩnh đoạt được lòng dân như thế này. Rốt cuộc là cao
nhân nào phía sau Đinh Bộ Lĩnh còn chưa lộ diện?
Đương khi tôi còn đang
miên man suy nghĩ thì Lưu Cơ ngồi bên cạnh thấp giọng hỏi nhỏ tôi:
-
Dương cô nương, Chúa công phân phó về việc phân chia quân hưởng
cô đã ghi chép cẩn thận chưa?
Tôi lúc này mới định
thần lại, nhận ra tôi còn đang ở tiền điện Đinh Phủ tham dự buổi họp quân của
Đinh Bộ Lĩnh cùng các tướng lĩnh và quân sư. Công việc thư lại này tuy nhàm
chán, giống công việc thư ký thời hiện đại ghi chép biên bản các cuộc họp,
nhưng lại giúp tôi nắm được rất rõ lực lượng quân số, các vị trí đóng quân chủ
chốt, việc phân chia giao nhận quân lương của Đinh Quân. Coi như thời gian tôi
lưu lại Hoa Lư cũng không phải vô nghĩa. Tôi bèn quay sang trả lời Lưu Cơ:
-
Lưu Quân sư yên tâm, tôi đều ghi chép lại cả rồi.
Lưu Cơ nghe tôi trả
lời mới bày ra vẻ mặt yên tâm, lại quay sang tiếp tục lắng nghe những lời Đinh
Bộ Lĩnh đang phân phó với chúng tướng. Lúc này Đinh Bộ Lĩnh cùng chúng tướng
đang thương nghị về việc bình định vùng Đông Nam Giao Châu. Đinh Bộ Lĩnh hỏi:
-
Ta muốn trong thời gian ngắn nhất thu phục toàn bộ vùng Đông Nam
Giao Châu, nếu có thể hoàn thành trước chiến dịch Tây Phù Liệt là tốt nhất.
Chúng tướng có ý kiến gì không?
Một vị tướng tuổi trạc
bốn mươi, gương mặt chữ điền, mày thanh mắt khiết, khí độ trầm ổn lên tiếng:
-
Theo mạt tướng thấy chúng ta có thể đưa thêm quân từ Hoa Lư lên
Bố Hải Khẩu, từ cửa Bố dùng thủy quân bắc tiến, chia làm ba đạo quân đánh đồng
loạt Siêu Loại[1],
Tế Giang[2] và Đằng Châu[3].
Vị tướng quân vừa đưa
ra ý kiến là Tướng quân Bùi Quang Dũng. Đây là chủ tướng một Đạo quân vừa quy
thuận Đinh Bộ Lĩnh gần đây. Trước đây, Bùi Tướng quân nức tiếng gần xa là người
có tài, văn thao võ lược, tinh thông binh pháp nên được cả ba vị Sứ Quân đương
thời là Ngô Xương Xí, Kiều Công Hãn và Đỗ Cảnh Thạc nhiều lần thuyết phục lôi
kéo về dưới trướng. Nhưng đến cuối cùng vị Bùi Tướng quân này đã tìm về với
Đinh Bộ Lĩnh.
Lời Bùi Tướng quân vừa
đưa ra, chúng tướng đều đồng loạt hưởng ứng cho là kế hay. Sau khi nghe hết ý
kiến của chúng tướng, Đinh Bộ Lĩnh mới nói:
-
Kế sách của Bùi Tướng quân là kế hay nhưng chưa phải là thượng
sách. Đi đường thủy tuy nhanh nhưng chia ba lực lượng đánh cùng lúc ba nơi sẽ
chiếm mất phần lớn lực lượng của Đinh Quân, có thể ảnh hưởng đến trận chiến chủ
lực với Tây Phù Liệt. Hơn nữa, tài lực và vật lực phải xuất ra cũng rất lớn. Ta
đây muốn dùng kế “Mượn đường diệt Quắc”[4] của
cổ nhân để đánh trận này. Ta sẽ cho người đến gặp Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu,
“mượn đường” đi đánh Lã Đường ở Tế Giang. Lại nói với Tế Giang là cho “mượn
đất” để đánh Lý Khuê ở Siêu Loại. Diệt Lý Khuê xong, ta quay lại diệt Lã Đường,
cuối cùng khi rút về Đằng Châu, Phạm Bạch Hổ tất phải đầu hàng.
Tôi chợt khựng bút. Mưu
cao kế chắc đến thế này quả thật chỉ có Đinh Bộ Lĩnh mới có thể nghĩ ra được. Tôi
không khỏi thán phục anh ta. Xưa nay Đinh Bộ Lĩnh dụng binh đều uyển chuyển
khéo léo mượn sức người khác làm lợi cho mình, hoặc nếu có thể đều dùng chính
sách ngoại giao không tốn một binh một tốt mà giành thắng lợi. Lý Khuê, Lã
Đường ở mạn Đông Giao Châu thường xuyên tranh chấp, tranh giành lãnh thổ, là kẻ
thù không đội trời chung. Mà Phạm Bạch Hổ ở phía Đông Nam Giao Châu cũng coi
hai Sứ Quân ở lân cận mình là cái gai trong mắt, đánh ai chứ đánh Tế Giang Lã
Đường thì Phạm Bạch Hổ mừng còn không kịp, hẳn sẽ nhận lời.
Tất cả chư tướng không
ai là không thán phục diệu kế của Đinh Bộ Lĩnh, nhất loạt ca tụng tâng bốc. Tôi
không nhịn được bèn cất giọng hỏi khó Đinh Bộ Lĩnh:
-
Đinh Sứ Quân, chẳng hay nên để ai đi thuyết phục Phạm Bạch Hổ
đồng ý cho “mượn đường” đi đánh Tế Giang đây? Vạn nhất không thuyết phục được
Phạm Bạch Hổ, há chẳng phải tất cả đều vô ích rồi sao?
Đinh Bộ Lĩnh khẽ nhếch
mép cười, giọng điệu mang theo chín phần châm chọc:
-
Việc này đành phải phiền Dương cô nương viết một phong thư cho
“Thê đệ” Ngô Nhật Khánh của ta ở Đường Lâm, nhờ hắn thay ta làm thuyết khách
với Phạm Bạch Hổ vậy.
Cái tên Đinh Bộ Lĩnh
này! Vẫn không quên sự vụ tôi thay anh ta cầu thân với Đường Lâm tháng rồi. Bị anh
ta phản đòn làm cho nghẹn họng, tôi đành cố nén giận, ngoan ngoãn đáp:
-
Tuân lệnh Sứ Quân.
Ngô Nhật Khánh và Phạm
Bạch Hổ đều là bộ hạ cũ của nhà Ngô, cả hai đều có giao tình. Để Ngô Nhật Khánh
làm thuyết khách, mười phần ắt chín phần thành sự. Tâm tư của Đinh Bộ Lĩnh thật
quá kín kẽ rồi, kể cả việc lợi dụng nhân tâm này anh ta cũng đã sớm tính đến.
Lại nghe Bùi Tướng
quân lên tiếng:
-
Mạt tướng xin được lãnh binh ra trận, thề giúp Chúa công đoạt
được toàn vùng Đông Nam Giao Châu.
Đinh Bộ Lĩnh mỉm cười
hài lòng:
-
Ta quả là có ý này! Bùi Tướng quân quay về điểm binh, hai ngày
sau lập tức khởi hành đến Bố Hải Khẩu, từ Bố Hải Khẩu di chuyển lên đất Đằng
Châu. Ta sẽ cho người dàn xếp phía Phạm Bạch Hổ và Lã Đường. Sau khi huynh đến
địa phận Đằng Châu, nhất định sẽ một đường thuận lợi vượt đất Tế Giang tiến
đánh Lý Khuê ở Siêu Loại.
Bùi Quang Dũng lập tức
vái Đinh Bộ Lĩnh lĩnh mệnh.
Đoạn, chúng tướng lại
tiếp tục bàn bạc về chiến dịch tấn công Tây Phù Liệt Nguyễn Siêu. Theo như thỏa
thuận với Lê Hoàn, Lê Quân sẽ từ Đỗ Động Giang tấn công phía Bắc Tây Phù Liệt, Đinh
Quân sẽ dùng thủy quân từ Bố Hải Khẩu tấn công phía Nam Tây Phù Liệt tạo thế
gọng kìm bao vây toàn bộ Tây Phù Liệt. Sau khi thương nghị, chúng tướng quyết
định sẽ để hai chủ tướng tuy trẻ tuổi nhưng thông thạo thủy chiến là Đào Cam
Mộc và Đinh Trọng Dật thống lĩnh hai Đạo quân của mình tham gia trực tiếp chiến
dịch này, Đinh Bộ Lĩnh sẽ là Chủ Soái giám trận, tả Tham quân Đinh Điền, hữu
Tham quân Lưu Cơ. Đạo quân của Tướng quân Đinh Trọng Dật vốn đã trấn thủ sẵn ở
Bố Hải Khẩu, nên hai ngày sau Đạo quân của Tướng quân Đào Cam Mộc cũng sẽ cùng
với Đạo quân của Tướng quân Bùi Quang Dũng đến Bố Hải Khẩu hợp quân.
*******************************************************
Đinh Bộ Lĩnh lần này
quả thật liệu việc như thần. Kế “Mượn đường diệt Quắc” của anh ta tính không
sai một li, Bùi Quang Dũng lại là tướng tài, tin tức chiến thắng cứ liên tiếp
từ tiền tuyến truyền về. Sức ảnh hưởng của Đinh Bộ Lĩnh càng ngày càng lan
rộng, cộng thêm với lời sấm truyền trong dân gian kia, tôi bắt đầu đứng ngồi
không yên. Chỉ thầm cầu khấn trời cao cho Lê Viễn có thể nhanh chóng kiểm soát
Diễn Châu, có như vậy thế lực của Lê Hoàn mới cân bằng với được với Đinh Bộ
Lĩnh, cùng anh ta quyết đấu trận cuối cùng.
Tôi cứ vừa đi dạo vừa
suy nghĩ, ấy vậy mà không biết tự bao giờ lại đặt chân đến rừng trúc phía sau
Đinh Phủ. Từng cơn gió nhẹ thổi qua rừng trúc xanh biếc, xua tan đi cái oi bức
của mùa hạ, lòng tôi bất chợt cũng mềm đi. Tôi thong thả bước chân xuyên qua
rừng trúc, lại thấy cách đó vài bước chân là một gian nhà gỗ trang nhã, cửa sổ
mở rộng, rèm cửa trắng tinh khẽ phất phơ. Bên cạnh gian nhà là một vườn rau nhỏ
tươm tất, khoảng sân trước nhà rộng rãi được quét tước sạch sẽ, kê một bộ bàn
ghế gỗ. Mà trên ghế có một chàng trai mặc áo xanh lục đang ngồi quay lưng về
phía tôi. Anh ta đang thổi tiêu, tiếng tiêu khi trầm khi bổng, làn điệu du
dương khiến lòng người mê mẩn. Thân hình anh ta cao gầy, mái tóc đen dài thi
thoảng lay động, cử chỉ thanh tao nhã nhặn, toàn thân toát ra khí chất thần
tiên. Chỉ nhìn bóng lưng cũng có thể cảm nhận được sự tinh khiết không nhiễm
thế tục của anh. Tôi cứ ngỡ mình vừa tiến nhập tiên cảnh, chỉ đến khi tiếng
tiêu dứt hẳn tôi mới giật mình thanh tỉnh. Không muốn quấy rầy thế ngoại cao
nhân, tôi khẽ lui bước định quay lưng rời đi, không ngờ lại nghe được một thanh
âm trầm ấm:
-
Cô nương, nếu đã đến sao không vào dùng một chén trà?
Tôi thoáng chút giật
mình. Chẳng lẽ ban nãy mình thất thố gây ra động tĩnh lớn lắm sao? Nhưng cuối
cùng tôi vẫn không nén nổi tò mò mà bước vào khoảng sân. Tôi đến ngồi trước mặt
anh, âm thầm đánh giá. Quả thật là một chàng trai tuấn tú, thanh nhã như trúc. Tôi
mỉm cười cất lời:
-
Quấy rầy nhã hứng của tiên sinh. Vân Nga thất lễ rồi!
Anh ta cũng mỉm cười
dịu dàng đáp:
-
Hóa ra là Dương cô nương.
Tôi hơi ngạc nhiên
nhướng mày hỏi:
-
Tiên sinh biết tôi sao?
Anh ta rót một chén
trà, cử chỉ lịch sự đưa tới trước mặt tôi, nói:
-
Dương cô nương là môn khách được Chúa công coi trọng, đương
nhiên tôi cũng đã được nghe danh.
Tôi phì cười. Nguyên
lai là vậy, đại nhân vật phía sau lưng Đinh Bộ Lĩnh đây rồi. Tôi đứng dậy chắp
tay hành lễ với anh ta:
-
Trịnh Quân sư! Ngưỡng mộ đã lâu!
Trịnh Tú phẩy tay:
-
Dương cô nương quá lời rồi. Mời ngồi.
Tôi không khách sáo,
nâng chén trà đưa lên miệng. Hương trà thơm ngát, vị trà thanh mát, thấm nhuần
cuống họng, khiến cả người tỉnh táo hẳn, tôi tấm tắc khen:
-
Trà ngon! Trà ngon!
Trịnh Tú liền cười
nói:
-
Lá trà do tôi hái từ trên núi buổi sớm, cũng do chính tay tôi ủ,
nước pha trà dùng sương đêm đọng trên cánh sen, hương vị có chút khác biệt với
trà thông thường. Để cô nương chê cười rồi!
Tôi cũng vui vẻ đáp:
-
Thật ngưỡng mộ cuộc sống điền viên của Trịnh Quân sư!
Trịnh Tú từ tốn nói:
-
Không dám, không dám. Hiện giờ tôi bất quá cũng chỉ gắng tìm
chút bình an trong thời loạn, chỉ cầu mong ngày sau Chúa công nên nghiệp lớn,
bản thân có thể sống một đời ở chốn thanh vắng.
Tôi đặt chén trà xuống
bàn, chăm chú nhìn Trịnh Tú, lại nói:
-
Trịnh Quân sư tài năng kinh bang tế thế, lui về như vậy thật
đáng tiếc.
Khóe môi Trịnh Tú khẽ
cong lên:
-
Dương cô nương lại quá lời. Tôi nào có tài năng gì? Có chăng
cũng chỉ thi thoảng bồi Chúa công uống một chén trà, đánh vài ván cờ luận
chuyện thiên hạ.
Đoạn, Trịnh Tú lại tự
rót cho mình một chén trà, động tác tao nhã nâng chén trà ngang mũi thưởng thức
hương thơm rồi từ từ nhấp một ngụm. Thoáng chốc tôi bỗng cảm giác hành động này
khá quen mắt, chỉ là
nhấc thời không nhớ ra đã gặp ở đâu.
Tôi lại nghĩ đến những sự việc xảy
ra gần đây, lòng không nhịn được bèn hỏi:
-
Không biết Trịnh Quân sư gần đây có nghe trong dân gian lưu
truyền hai câu sấm: “Mệnh trời đã định nẻo xưa. Ngọc khuê dành để đợi chờ đế
vương.”?
Trịnh Tú lại cất giọng
bình ổn:
-
Đã từng nghe qua. Chúa công hiện có cả thiên thời, địa lợi, nhân
hòa. Xưng đế là chuyện không sớm thì muộn. Người là bậc kỳ tài trăm năm hiếm
gặp, có thể kết thúc loạn thế đương thời, mở ra thái bình thịnh trị. Việc người
xưng đế chính là thuận thiên ý, thỏa lòng dân.
Tôi khẽ hừ nhẹ một
tiếng, giọng không giấu được sự bất mãn mà nói:
-
Thật hay cho một câu “thuận thiên ý, thỏa lòng dân”!
Trịnh Tú thấy sắc mặt tôi
không tự nhiên, lại ôn tồn giảng giải:
-
Dương cô nương, tự cổ chí kim, người nào lấy được lòng dân chính
là lấy được cả thiên hạ.
Tôi bất nhẫn đáp:
- Trịnh Quân sư, lấy được lòng dân
không phải chỉ bằng những trò giả thần giả quỷ.
Trịnh Tú khẽ cúi đầu, trông thoáng ngần
ngừ, sau lại cất giọng trầm ổn nói:
-
Dương cô nương, bách tính trong thiên hạ đã chịu quá nhiều nỗi
khổ loạn li. Trong mắt họ, ai lên làm vua cũng không còn quan trọng. Quan trọng
là cho họ một đức tin, để họ còn có thể tiếp tục sống, tiếp tục hy vọng về
tương lai.
Tôi lại không đồng
tình mà hỏi tiếp:
-
Sao Trịnh Quân sư dám đảm bảo niềm tin của họ sẽ không đặt nhầm
người?
Trịnh Tú không đáp lời
tôi, chỉ khẽ mỉm cười. Hồi sau, anh ta lại mở lời:
-
Dương cô nương, chuyện của cô và Lê Sứ Quân tôi đã nghe Chúa
công kể qua. Dương cô nương là một nữ tử hiểu chuyện, vì sao lại không khuyên
Lê Sứ Quân quy thuận Chúa công, đỡ cho bách tính được một hồi binh đao? Hai
người cũng có thể ở Ái Châu mà an nhàn hưởng phúc.
Tôi thấy Trịnh Tú
chuyển chủ đề, cũng không muốn gặng hỏi anh ta đến cùng, chỉ lạnh nhạt đáp lời:
-
Dương Vân Nga tôi không muốn dùng nữ nhi tình trường trói buộc
quyết định của Lê Hoàn.
Trịnh Tú chỉ khẽ gật
đầu, sau lại điềm đạm nói:
-
Dương cô nương, hiện tại trong thiên hạ Chúa công là lấy đức lập
uy, mà Lê Sứ Quân là lấy dũng lập uy. Một khi hai người này đối đầu, tôi nghĩ
không cần nói cô cũng biết rõ thắng bại sẽ nghiêng về bên nào? Cô nương cũng là
người biết thức thời, sao không nhân lúc còn có thể vãn hồi mà bỏ tối theo
sáng?
Tôi ương ngạnh hỏi
lại:
-
Vậy thì đã sao? Chưa đến phút cuối cùng sao có thể nói trước
thắng thua? Càng huống hồ từ lúc tôi quyết định ở bên cạnh Lê Hoàn, tôi đã biết
sẽ có một ngày chàng và Đinh Sứ Quân đối đầu. Mặc kệ kết quả ra sao, tôi vẫn sẽ
luôn đứng bên cạnh chàng.
Trịnh Tú ngẩn ra nhìn tôi,
sau đó thì bật cười:
-
Ha ha, quả thật là một cô nương cao ngạo. Không hổ danh là người
có mệnh phượng hoàng.
Một câu này của Trịnh
Tú làm tôi không khỏi nghi hoặc, bèn nghi hoặc hỏi anh ta:
-
Mệnh phượng hoàng gì? Xin Trịnh Quân sư nói rõ!
Trịnh Tú nhìn tôi nói:
-
Dương cô nương, thứ lỗi cho tôi thất lễ. Kể từ lúc cô đặt chân
đến đây, tôi đã nhận ra cô nương có cốt cách bản mệnh phượng hoàng. Chẳng hay
cô nương có ngại để tôi xem chỉ tay lần nữa cho kỹ.
Tôi hơi lưỡng lự nhưng
sau đó cũng đưa tay đến trước mặt Trịnh Tú nói:
-
Được!
Trịnh Tú khẽ nâng tay tôi,
nhẹ giọng nói:
-
Thất lễ!
Đoạn, anh ta chăm chú
quan sát chỉ tay tôi. Sau đó nhẹ nhàng thả bàn tay tôi xuống, lại bấm bấm ngón
tay, lẩm nhẩm tính toán một hồi. Một lúc sau, anh ta mới nói:
-
Thật kỳ lạ! Rõ ràng là mệnh phượng hoàng, nhưng… nhưng sao lại…
như vậy?
Thấy Trịnh Tú khẽ nhíu
mày, thần thái loáng thoáng mơ hồ, tôi không kiên nhẫn mà hỏi lại:
-
Xin Trịnh Quân sư chỉ rõ có gì không ổn!
Sắc mặt Trịnh Tú thấp
thoáng vẻ bất đắc dĩ, nói:
-
Dương cô nương đúng thật là có bản mệnh phượng hoàng! Nhưng khi tôi
xem chỉ tay của cô nương lại có đến hai mệnh phượng hoàng. Xưa nay trong thiên
hạ người có mệnh phượng hoàng đã hiếm, nhưng lại có song mệnh phượng hoàng thì
lại càng không thể.
Nghe Trịnh Tú nói làm
đầu óc tôi lùng bùng rối loạn cả lên, tôi không giấu được chút khẩn trương hỏi:
-
Trịnh Quân sư, xin ngài giải thích một chút, mệnh phượng hoàng
là gì?
Trịnh Tú ôn tồn giải
thích:
-
Mệnh phượng hoàng chính là người có mệnh cách làm Hoàng hậu, phò
trợ Đế vương sáng lập đế nghiệp.
Tôi giật mình. Chẳng
lẽ sau này Lê Hoàn sẽ lập tôi làm hoàng hậu sao? Tôi đã biết Lê Hoàn sẽ xưng
đế, tôi và anh đã ước định chuyện chung thân đại sự, ngày sau anh nhất định sẽ lấy
tôi. Chỉ là tôi chưa từng nghĩ đến chuyện mình có được anh lập làm hoàng hậu
hay không. Nay nghe Trịnh Tú nói vậy, tự nhiên trong lòng tôi liền dâng lên một
niềm vui lớn lao, không ngăn được một chút thẹn thùng cùng một chút kỳ vọng xa
xăm. Có điều, lại bị giọng nói của Trịnh Tú cắt đứt những suy nghĩ ngổn ngang
trong lòng.
-
Nhưng một người nếu có song mệnh phượng hoàng chẳng phải sau này
sẽ làm hoàng hậu hai lần sao? Việc này sao có thể xảy ra? Trừ phi…
Tôi liền gấp gáp hỏi:
-
Trừ phi thế nào?
Trịnh Tú hơi chần chừ,
cuối cùng lại thấp giọng nói:
-
Cũng không phải là không thể. Có thể là phế hậu rồi lại lập hậu.
Như vậy cũng tính là hai lần làm hoàng hậu.
Tôi thất vọng. Lại có
chuyện như vậy nữa à? Cái gì gọi là có thể phế rồi lại lập chứ? Nghe sao mà thê
lương quá. Thôi, những chuyện như thế này cứ không tin thì sẽ không có. Mệnh tôi
là do tôi định.
Dứt khoát nghĩ vậy, tôi
liền nheo mắt cười cười:
-
Ha ha, Trịnh Quân sư thật biết nói đùa! Mệnh phượng hoàng gì
chứ? Tôi bất quá cũng chỉ là một cô nương xuất thân trong một gia đình bình
thường, nào dám si tâm vọng tưởng được làm Hoàng hậu. Càng không nói gì đến
việc có đến song mệnh phượng hoàng. Chuyện này chắc có nhầm lẫn gì rồi!
Trịnh Tú thoáng tự ái,
nhướng mày nói:
-
Dương cô nương, quẻ tính của tôi chưa bao giờ sai!
Tôi lại cười đáp:
-
Ha ha, Trịnh Quân sư, trời đất còn không vẹn toàn, huống chi là
một quẻ tính! Chuyện này chỉ nói đến đây thôi, xin Trịnh Quân sư chớ nhắc lại
kẻo lại phát sinh thêm phiền phức cho tôi.
Trịnh Quân sư là người
thông tuệ, nghe tôi nói vậy liền hiểu ý mà khẳng khái đáp:
-
Dương cô nương nói phải. Là tôi lắm lời rồi!
Đương khi tôi và Trịnh
Quân sư còn đang nói chuyện thì đã thấy từ xa một bóng người vận y phục trắng, khí
độ cao quý, thong dong bước đến. Nụ cười vẫn giữ trên đôi môi mỏng đẹp đến mê
người ấy, người nọ ôn tồn cất lời:
-
Trịnh huynh hôm nay có khách đến thăm sao?
Trịnh Tú vội vàng đứng
lên quay lưng chắp tay cúi đầu hành lễ:
-
Chúa công!
Đinh Bộ Lĩnh nhanh
chân bước đến, hai tay cẩn thận nâng Trịnh Tú lên, nhẹ nhàng nói:
-
Trịnh huynh không cần đa lễ.
Đoạn, Đinh Bộ Lĩnh mới
quay sang nhìn tôi hỏi:
-
Dương cô nương cũng ở đây cùng Trịnh huynh đàm đạo à?
Tôi cũng cúi đầu hành
lễ với Đinh Bộ Lĩnh:
-
Bái kiến Đinh Sứ Quân. Tôi chỉ vô tình đi ngang qua biệt trang
này thôi, cũng tới lúc nên quay về rồi, không dám làm phiền Đinh Sứ Quân và
Trịnh Quân sư nữa. Xin cáo từ!
Nói rồi tôi cũng quay
sang nhìn Trịnh Tú hành lễ:
-
Trịnh Quân sư, Vân Nga cáo từ!
Trịnh Tú gật đầu nói:
-
Dương cô nương, cáo từ. Cô nương ngày sau có rãnh rỗi mời lại
ghé tệ xá thưởng trà, tôi sẽ để dành trà ngon mời cô nương.
Tôi liền nở nụ cười
thật tươi đáp:
-
Đa tạ Trịnh Quân sư.
Tôi xoay lưng cất bước
rời đi, để lại sau lưng đôi quân thần Đinh Bộ Lĩnh, Trịnh Tú.
Trịnh Tú, Trịnh Quân sư,
mưu sĩ giỏi nhất triều Đinh, người đứng đằng sau lời sấm truyền “Đoạt ngọc khuê, lĩnh mệnh trời” cuối
cùng cũng đã xuất hiện rồi. Người này, mười mấy năm sau, sẽ trở thành kẻ đối
đầu lớn nhất của Lê Hoàn. Chỉ là, biết trước kết cục của anh ta, lòng tôi vẫn
không khỏi dâng lên một hồi luyến tiếc…
-Hết chương 19-
[1]Siêu Loại: huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
ngày nay
[2]Tế Giang: huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày
nay
[3]Đằng Châu: thuộc thị
xã Hưng Yên, tỉnh
Hưng Yên và một
phần tỉnh
Thái Bình ngày nay
[4]“Mượn đường diệt Quắc”: Tam thập lục kế, kế thứ hai mươi tư. Xuất phát
từ điển tích: Tấn Hiến Công, vị vua thứ 19 của nước Tấn. Bấy giờ, nước Quắc là
nước thù địch với nhà Tấn. Tấn Hiến công nóng lòng muốn đánh nước Quắc lắm
nhưng Sĩ Vĩ can rằng nên chờ nước Quắc loạn rồi hẳn đánh. Chờ dài cổ mà chẳng
thấy nước Quắc loạn, các mưu sĩ bèn dâng kế Giả đạo phạt Quắc nghĩa là mượn
đường đi qua nước Ngu để đánh nước Quắc. Bèn đem ngựa tốt xe đẹp tặng vua nước
Ngu, nói rằng nước Tấn và nước Ngu là đôi bạn vàng. Vua nước Ngu nghe bùi tai
bèn cho nước Tấn mượn đường diệt Quắc. Sau khi tiêu diệt nước Quắc, quân nước
Tấn quay lại thôn tính luôn nước Ngu, bắt sống Ngu công.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét